Những bảo vật thể hiện quyền uy của triều Nguyễn sau 71 năm được dời ra Hà Nội (1945-2016) đã quay về Hoàng cung Huế trong cuộc triển lãm Bảo vật Hoàng cung triều Nguyễn.
Sáng 6.12, tại Bảo tàng Cổ vật cung đình Huế, Trung tâm Bảo tồn di tích cố đô Huế phối hợp với Bảo tàng Lịch sử Quốc gia tổ chức khai mạc triển lãm Bảo vật Hoàng cung triều Nguyễn.
Các bảo vật được giới thiệu tại triển lãm lần này bao gồm những vật biểu trưng cho quyền lực tối cao của hoàng đế và triều đại như kim bảo, kim ấn, kim sách, bảo kiếm… Tổng cộng các cổ vật là 64 loại.
Bên cạnh các bảo vật đại diện uy quyền, đợt triển lãm lần này còn giới thiệu một số thẻ bài bằng ngà voi, đồng, đá… cùng những đồ tự khí, những vật dụng phản ánh đời sống sinh hoạt, nghi lễ cung đình triều Nguyễn được làm bằng các chất liệu quý hiếm như vàng, ngọc, đá quý, được lưu truyền qua nhiều đời.

Bộ ấn vàng và ngọc tỷ truyền quốc (giữa) của triều Nguyễn
Đây là lần đầu tiên sau 71 năm Huế đón nhận số lượng lớn các bảo vật triều Nguyễn trở về đất cố đô. Triển lãm sẽ mở cửa thường xuyên tại Bảo tàng Cổ vật Cung đình Huế (số 3 Lê Trực, TP.Huế) vào các ngày trong tuần từ 6.12 đến 5.1.2017.
Chùm ảnh quốc bảo, ngọc tỷ triều Nguyễn:

Trong 143 năm tồn tại của mình, nhà Nguyễn cũng như các vương triều trước đó đều coi ấn tín biểu thị cho quyền lực tối cao, là báu vật của quốc gia và tượng trưng cho đế quyền. Triều Nguyễn đã cho làm hơn 100 chiếc ấn báu, có rất nhiều loại ấn tín khác nhau từ hình dáng đến họa tiết, chất liệu… Rất nhiều trong số đó là những ấn tín độc đáo có một không hai.

Điển hình nhất, có giá trị cao nhất là loại ấn tín của hoàng đế được gọi chung là "Kim ngọc Bảo tỷ". Kim Ngọc Bảo tỷ là những ấn của nhà vua dùng trong trường hợp danh nghĩa quốc gia trọng đại hay được đóng trên các văn bản quan trọng. Những loại ấn này nếu được làm bằng ngọc gọi là "Ngọc tỷ", được đúc bằng vàng gọi là "Kim Bảo tỷ".
Vua Minh Mạng trong thời gian ở ngôi đã cho làm nhiều loại ấn tín bằng các chất liệu khác nhau với mục đích sử dụng cụ thể. Ngoài ra trong số ấn tín của vua lại có những chiếc ấn có được một cách tình cờ. Sách Minh Mạng chính yếu cho biết vào năm Mậu Tý (1828) "có người ở Quảng Trị là Nguyễn Đăng Khoa, được viên ngọc tỷ đem vào dâng vua, trong có khắc bốn chữ: "Vạn thọ vô cương" bằng lối chữ triện."

Hai chiếc ấn Hoàng hậu chi bảo và Hoàng Thái hậu chi bảo.
Các quan đều tâu mừng rằng: "Đây là điềm đức Hoàng thượng thọ khảo và phúc quốc gia vô cương vậy!". Nhà vua đem việc ấy mà dụ các quan rằng: "Khi trẫm mới lên ngôi, người ở Long triều đã từng dâng ngọc tỷ khắc bốn chữ: "Trung hòa vị dục", nay lại được ngọc tỷ này, xem nghĩa bốn chữ ấy thì có lẽ là bảo vật của triều trước di truyền, để lâu ngày mờ ám nên chưa biết rõ".
Về sau người ở Đông Trì, tỉnh Thừa Thiên là Hoàng Nghĩa Thắng đào được một ngọc tỷ đem dâng, trong có khắc bốn chữ nổi là: "Phong cương vạn thổ".

Ấn Đại Nam thụ thiên vĩnh mệnh truyền quốc tỷ
Trên mặt núm vuông chạm hình rồng. Mặt ấn chạm 4 chữ Triện: Phong cương vạn cổ.Ấn này không thấy ghi chép trong sách vở nào nhưng rất cổ kính và độc đáo.
Sách Quốc sử di biên cũng cho biết như sau: "Lấy được ấn ngọc ở Quảng Bình. Tôn Thất Sưởng bắt được ở xã Nhan Biều, trấn Quảng Bình, ấn có bốn chữ "Vạn thọ vô cương". Chiếu cho dùng ấn ngọc này đóng vào tờ ấn chiếu tiết Vạn Thọ. Trước có 6 ấn ngọc như "Quốc gia tín bảo", "Trị lịch minh thời".v.v…, đến đây, tăng thêm 6 ấn ngọc nữa là "Hoàng đế chi tỷ", "Tôn nhân chi tỷ", "Khâm văn", "Duệ vũ", "Sắc chánh vạn dân" và "Thảo tội an dân", cộng với 6 ấn cũ thành 12 ấn ngọc, đều tùy việc mà dùng".

Quốc gia tín bảo (thuộc niên hiệu Gia Long 1802-1820)
Sau thời gian một năm trời bỏ công sức, trổ hết tài năng, thợ khắc đã chế tác xong chiếc ấn dâng lên, vua Thiệu Trị xem thấy ngọc tỉ cứng rắn, đẹp đẽ, ôn nhuận sáng sủa, trên núm ấn là hình rồng uốn khúc, cao hơn 4 tấc, mặt hình dấu khắc theo hình vuông, kích thước 3,1×3,1cm. Nhà vua cũng quyết định chọn thời điểm đẹp, ngày tốt là ngày 15 tháng 3 năm Đinh Mùi (1847), tổ chức việc khắc chữ triện vào Ngọc tỉ đúng theo nghi lễ.
Hôm đó vua Thiệu Trị đích thân làm lễ Đại tự, thỉnh mệnh trời đất, kính yết Tổ khảo giúp vận nước lâu dài, và khắc lên mặt ấn ngọc 9 chữ Triện: "Đại Nam thụ thiên vĩnh mệnh truyền quốc tỉ"(Ngọc Tỷ truyền quốc của nước Đại Nam, nhận mệnh lâu dài từ trời). Nghi lễ xong xuôi, vua lệnh cho các cung giám phụng mang cất giữ cẩn thận ở điện Trung Hòa trong Càn Thành.
Với bảo ấn đó, vua Thiệu Trị cho dùng đóng trên những bản sắc mệnh ban cho các nước chư hầu, những việc ban bố cho thiên hạ và nó được coi trọng bảo vệ như Kim bảo "Nam Việt quốc Nguyễn chúa vĩnh trấn tri bảo" được đúc theo lệnh của chúa của Minh Vương Nguyễn Phúc Chu và truyền lại sử dụng trong thời gian cầm quyền của các chúa Nguyễn sau đó.

Hai bảo kiếm có chuôi nạm vàng, ngọc đồi mồi rất tinh xảo

Mũ Hoàng đế thường triều
Hoàng đế đội mũ Bình Thiên, mũ Quyển Vân ,mũ Phù Dung, mặc Cổn y (tay thụng, tràng áo cong), cổ áo đính là trắng hay bông trắng kết lại, khăn kết tua vàng và ngọc châu phủ tấm vuông, tay cầm ngọc khuê, đeo đai lưng kim long.
Mũ tước vương (chia 3 bậc là vương, tự vương, thân vương): Mũ có đính con ong, con bướm vàng, lớn nhỏ thưa dày tùy theo cấp bậc; áo thân vương: mặc tiêu kim tử phục (áo có màu tía thêu kim tuyến).Tước hầu chia hai bậc: minh tự một bậc gọi là mũ Củng Thần, ở trên có đính ong và bướm vàng. Tước hầu, minh tự mặc áo phượng ngư tứ phục (áo thêu chim phượng cá).
Từ đại liêu ban trở xuống mặc áo long cổn, đội Mũ Miện đều có cấp bậc (ban văn thêu con cá vàng). Viên ngoại lang, lang tướng đội mũ Miện kim ngân gián đạo (vàng bạc xen nhau). Lệnh thư xá đến văn hiệu thư lang (thượng chế, thị cấm) đều đội mũ bằng bạc). Mũ Miện đại lễ mới dùng đến, thường lễ chỉ đội khăn và mặc áo tía, các chức cung hầu, thư xá không được dùng. Đai lưng bằng vàng da tê hay bằng vàng tùy theo phẩm trật, hốt đều bằng ngà voi. Bọn chức quan, tá chức đều đội khăn, mặc áo tía thắt đai xéo, không cầm hốt, chắp tay lạy quốc chủ (hoàng đế).
Bình thường ở nhà đội khăn Tàu, thường phục chuộng màu trắng, người trong nước ai mặc đồ trắng cho là tiếm chế, duy phụ nữ thì không cấm về trang sức. Từ vương hầu đến thứ dân thường hay mặc xiêm màu huyền, cổ tròn, quấn bằng lụa trắng, thích đi giày da. Vương hầu lúc vào vào yết kiến vua không bịt khăn tỏ ý thân quý, thứ dân thì không được như vậy. Các nội quan hầu cận, thượng phẩm đội mũ Dương Thường, đính ong bướm vàng hoặc thưa, hoặc nhặt mặc áo phẩm phục.

Mũ Bình thiên
Đăng nhận xét